Ngập lụt và sạt lở đất tại Đà Lạt: Đi tìm căn nguyên đến giải pháp

24/07/2023 08:52 150

SẠT LỞ ĐẤT

Lê Thành

Khoảng thời gian gần đây, thành phố Đà Lạt đang “nóng dần lên” không phải bởi khí hậu, mà từ những trận mưa “khủng” vào các ngày cuối tháng 6/2023. Tuy thời gian mưa không kéo dài nhưng nhanh chóng gây nên tình cảnh “ngập lụt cục bộ” tại một số đoạn đường, góc phố của “thành phố ngàn hoa”. Mặc dù chỉ không đầy một giờ sau cơn mưa, lượng nước ngập được rút cạn từ các động thái “khai thông mương/suối” kịp thời từ phía chính quyền và nhân dân tại các khu vực nơi cuối dòng chảy.

Toàn cảnh hiện trường vụ sập kè và sạt lở đất ngày 29/6/2023 tại Đà Lạt (Nguồn: Võ Trang – Báo Lâm Đồng)

Điều lạ là người dân Đà Lạt – và cả một số đô thị khác trong tỉnh Lâm Đồng – không hề bất ngờ khi gặp phải những cơn mưa lớn như thế!. Họ đã quen với quy luật “trời mưa thì đất chịu!”. Nhưng đỉnh điểm của thời tiết Đà Lạt dẫn đến “cao trào”: Sập kè taluy bê tông cốt thép và sạt lở đất kinh hoàng (vào rạng sáng ngày 29/6/2023), dẫn đến tổn thất nghiêm trọng về nhân mạng và tài sản của dân (tử vong 02 công nhân, bị thương 05 người và làm hư hại 03 ngôi nhà có giá trị lớn) trên một con hẻm của đường Hoàng Hoa Thám, phường 10, Đà Lạt… Câu chuyện “ngập lụt và sạt lở đất” trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, không chỉ về mặt truyền thông mà ngay cả giới chuyên môn cũng quan tâm bàn luận về góc độ “giải pháp khoa học và nhu cầu dân sinh”.

Đi tìm căn nguyên

Nhiều tin bài được đăng trên các báo và trang mạng xã hội, kèm theo một số ý kiến chuyên gia tại địa phương và thành phố lớn, khiến cho dư luận đang hiểu “vấn nạn” của Đà Lạt xuất phát từ một số nguyên nhân, như: Thiếu tầm nhìn định hướng quy hoạch, buông lỏng quản lý trong phát triển đô thị, thiếu trách nhiệm trong kiểm soát trật tự cấp phép xây dựng trên địa bàn (?), v.v và v.v…Mỗi người có quyền nhìn nhận vấn đề theo cách nghĩ riêng. Dù sao thì sự việc cũng đã xảy ra rồi !. Chính phủ cũng đã có ý kiến chỉ đạo; Chính quyền tỉnh và thành phố đã và đang có những biện pháp quyết liệt, đồng bộ từ các ngành chức năng: Tích cực khắc phục hậu quả; khởi tố vụ án và xử lý trách nhiệm các tổ chức, cá nhân liên quan; bên cạnh việc bù đắp phần nào tổn thất, đau thương cho các gia đình bị liên đới…

Hiện nay, các nhà quản lý chính sách đến các chuyên gia đô thị và những ai quan tâm đến “căn bệnh đô thị” – không riêng gì của Đà Lạt

  • muốn tìm hiểu mọi căn nguyên, để nhận diện và lý giải vấn đề từ thực tiễn. Qua thông tin ghi nhận được từ báo chí, đối chiếu với hình ảnh thực tế tại hiện trường và thông báo của Chính quyền, tôi nhận định bước đầu các nguyên nhân chủ yếu và những hệ lụy mang tính “nhân – quả” sau:

Trước  hết  nói  về  “Nước”:  Câu chuyện bắt đầu từ thời tiết Đà Lạt luôn có 6 tháng mưa trong năm (từ tháng 4 đến tháng 10), cùng với tác động của “Biến đổi khí hậu toàn cầu” nên số ngày mưa kéo dài hơn các năm trước; vũ lượng mưa trong những ngày cao điểm tăng mạnh – mặc dù tổng lượng mưa trong năm có thể tăng/giảm không lớn; thời tiết năm nào cũng có hiện tượng sương muối và mưa đá nặng hạt… Về mặt quy hoạch đô thị, các chuyên gia tư vấn luôn tham chiếu số liệu về hiện tượng tự nhiên của một vùng đất (ít nhất trong 5 năm liên tục và gần nhất), trước khi đưa ra các giải pháp “chống – chịu”, thích ứng với môi trường, đảm bảo an toàn và bền vững lâu dài, nên về mặt định hướng quy hoạch chung về phát triển đô thị là đã có các giải pháp tích cực trong khả năng dự báo.

 

Tuy nhiên, xét từ vụ việc cụ thể (như trên), cho thấy: Lượng nước mưa tại chỗ diễn ra cấp tập, lại không được thu hứng từ hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ tại chỗ, nên nguồn nước dâng tự chảy tràn tự nhiên trên bề mặt của địa hình. Một khi dòng nước chảy tự do, luôn mang theo lượng bùn đất được cuốn trôi và tìm hướng thoát về địa hình thấp/ trũng. Trong điều kiện địa hình cách biệt đột ngột (khoảng 30m, từ hẻm đường Yên Thế xuống hẻm đường Hoàng Hoa Thám), nguồn nước trôi tự do sẽ tạo xung lực rất lớn tăng theo độ dốc của dòng chảy, gây ra sự càn phá ghê gớm nơi vùng thấp trũng.

Thứ hai, về “Đất”:  Đối với loại đất Bazan của Tây nguyên khi bị thấm nước thường không còn kết dính nguyên trạng như lúc ban đầu khô ráo. Nước ngấm lâu và ngập úng làm gia tăng thể tích đất (ở trạng thái bùn và nhão), luôn tiềm ẩn nguy cơ trượt dài, sạt lở về phía địa hình thấp trũng. Tình trạng này không chỉ có ở Đà Lạt, mà thường xảy ra tại các đô thị có địa hình miền núi qua các trận “lũ quét”, “bùn trôi”, “sạt lở đất tự nhiên”, v.v…

Thực tế cho thấy (ảnh 1): Kè chắn đất BTCT thi công tại chỗ, cao 13,4 m, giật thành 3 cấp với góc xiên nhỏ và khoảng cách giữa các cấp kè là 1,2 m, cao từ 4 – 4,7 m. Kè được thi công thành một khối thống nhất (là một phần của ranh khu đất có chiều ngang 381 m, do hợp thửa từ 4 lô đất liền kề), với khối đất đắp (thô) khoảng 6.000 m3, nhằm tạo diện tích mặt bằng xây dựng khoảng 2.153 m2… Khi xảy ra sự cố, với lượng nước mưa quá lớn được chảy tràn trên bề mặt địa hình và từ công trình, cùng lúc với lượng đất đắp bên trong kè bị trương nở, tạo nên một lực công phá dữ dội, đạp bung một phần kè chắn rộng 29 m trượt ra khỏi kết cấu nguyên khối và trút đổ lượng đất bên trong kè trôi chảy tự do xuống thềm đất phía dưới cách khoảng 30 m, mang toàn bộ bùn đất vùi lấp mọi thứ, gây thảm họa kinh hoàng như mọi người đã biết.

Phạm vi san lấp đất xâm phạm vào hành lang lưới điện hiện có (Nguồn: Lâm Viên – Báo Thanh Niên)

Thứ ba, về “sự tuân thủ kỹ thuật và quy định”: Trong chuỗi hoạt động xây dựng, Nhà  nước  luôn có những quy định và quy chuẩn chặt chẽ (từ Trung ương đến địa phương). Đối với khu vực có nhu cầu san lấp đất để tạo mặt bằng xây dựng ổn định, yêu cầu và khuyến cáo trong các giải pháp thiết kế kè chắn bằng BTCT (còn gọi “kè cứng”), có góc xiên từ 150 – 300; chiều cao kè không quá 4 m; bề ngang tùy thuộc vào kích thước lô đất được quy hoạch chia lô (với “nhà phố liên kế” rộng từ 4 – 5 m, “biệt lập có sân vườn” rộng từ 10 – 20 m). Như vậy, với các chỉ tiêu giới hạn (bề ngang, chiều cao và góc xiên), về mặt kỹ thuật và quản lý nhà nước đã có sự kiểm soát giải pháp san lấp và khối lượng đất; cùng với các giải pháp thiết kế kỹ thuật đồng bộ khác được thể hiện trong bản vẽ trình duyệt, như: Tính toán kết cấu chịu lực của kè; hệ thống mương, hố ga thu nước và các lỗ thoát nước trên bề mặt kè cứng; giải pháp thu nước mặt liên thông từ đầu kè xuống chân kè và hướng thoát ra mương cống chung tại khu vực (bên ngoài ranh đất)…

Cho dù giải pháp thiết kế có đạt chuẩn kỹ thuật và được cấp phép, thì chuỗi công việc (từ thiết kế, thi công, giám sát, vận hành và hậu kiểm) Nhà nước đều quy định rõ chức năng và trách nhiệm của từng chủ thể có liên quan (gồm các tổ chức và cá nhân: chủ công trình, đơn vị thiết kế, thẩm định, nhà thầu thi công, người giám sát, cán bộ cấp phép và quản lý trật tự xây dựng tại địa bàn…). Qua thông cáo báo chí từ Chính quyền cho biết: Công trình kè chắn đất bị sạt lở đã có những vi phạm nghiêm trọng, không tuân thủ quy định quản lý nhà nước và hồ sơ thiết kế được duyệt, vi phạm hành lang lưới điện (ảnh 2), xâm lấn ranh đất cấp, vi phạm quy trình tư vấn thiết kế, thi công và giám sát… Đến nay, Trưởng phòng Quản lý đô thị Đà Lạt bị đình chỉ công tác, 2 cá nhân là chủ thầu thi công (kiêm đơn vị thiết kế) và cán bộ kỹ thuật (đơn vị tư vấn giám sát công trình) đã bị khởi tố và tạm giam…

Bằng phương pháp “suy đoán bất lợi”, tôi đưa ra một số nhận định sau: Có sự vô tình hay chủ đích trong việc ghép 2 thửa đất để chia thành 4 lô cho 4 chủ hộ (?); Đơn vị thiết kế (có cả chức năng thi công) nên dễ có khả năng khi tư vấn thiết kế thì lập hồ sơ cho từng đoạn kè và xin cấp phép riêng lẻ cho từng hộ, nhưng khi nhận thi công lại hướng đến giải pháp gộp chung thành một công trình nguyên khối và thực hiện theo một bản vẽ khác so với hồ sơ được duyệt (?)… Về mặt trách nhiệm đối với các đơn vị Nhà nước có liên quan, cần xem xét: Hồ sơ giao đất, hợp thửa đất và chia lô có phù hợp với quy hoạch và quy định (?); Hồ sơ cấp phép xây dựng vi phạm hành lang lưới điện (?); Việc thi công theo giấy phép xây dựng kè đã hết hạn (do quá 01 năm kể từ ngày cấp, trong đó 3 hộ được cấp cùng ngày 29/3/2021 và 1 hộ cấp ngày 08/6/2021) nhưng không hề được phát hiện, kiểm tra và xử lý (?); Chức năng hậu kiểm của cơ quan cấp phép; cùng trách nhiệm quản lý về trật tự xây dựng của cơ quan chức năng và chính quyền phường 10 trước mọi diễn biến về nhà- đất tại địa bàn trước ngày xảy ra sự cố (?)…

Cảnh lấn chiếm đất rừng làm nông nghiệp với hình thức “nhà kính, nhà lưới” tại vùng thấp trũng và cạnh hồ Than Thở (Ảnh: TĐL)

Rất nhiều vấn đề được giới chuyên môn nêu ra và bàn luận nhưng chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Cơ quan chức năng đang tiếp tục điều tra và sẽ có kết luận chính thức từ vụ án. Thiết nghĩ, Chính quyền cần nhanh chóng phân tích thấu đáo về mặt pháp lý hồ sơ, lý do thi công khác biệt tại hiện trường, các mối quan hệ đan xen giữa các chủ thể… để có phương thuốc điều trị hữu hiệu; không để tình trạng “di căn” hoặc “lờn thuốc” trước căn bệnh “thờ ơ – buông lỏng – thiếu trách nhiệm”dẫn đến sự bất tuân kỹ thuật và quy định (từ cán bộ đến tổ chức và cá nhân) trong các chuỗi hoạt động liên quan đến lĩnh vực đất đai, xây dựng từ trước đến nay.

Đề xuất giải pháp

Với góc nhìn cá nhân và sự hiểu biết hạn hẹp, tôi thử đề xuất một số giải pháp theo chiều hướng tích cực, như sau:

Về giải pháp ngắn hạn, cấp thiết:

  • Ngành Xây dựng tỉnh cần tổ chức tọa đàm, trao đổi về những bài học kinh nghiệm từ sự cố công trình cho các tổ chức, cá nhân hành nghề xây dựng trong tỉnh, để qua đó nhận thức được các hành  vi sai trái dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, do không tuân thủ các quy định về hành nghề trong xây dựng (tư vấn thiết kế, thẩm tra, giám sát, thi công), không tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục xây dựng về cấp phép xây dựng.
  • Chính quyền Đà Lạt cần tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đến từng hệ thống chính trị, các Tổ dân phố, để Cán bộ và Nhân dân hiểu biết về các quy chuẩn, quy phạm, quy định đối với nhà ở và công trình riêng lẻ trong khu dân cư đã ổn định; nắm bắt các thủ tục thiết kế và xin phép xây dựng; nhất là các yếu tố kỹ thuật cơ bản (về thiết kế và thi công) khi có nhu cầu san lấp đất và xây kè chắn đất, để cùng kiểm tra (với tư cách chủ đầu tư) và giám sát cộng đồng (với tư cách người dân lân cận).
  • Công bố các biển báo tại những khu vực thường xảy ra “ngập lụt cục bộ”, các điểm có khả năng gây tắt nghẽn mương, cống thoát nước, khu vực sông, suối, khe tụ thủy…). Hướng dẫn bà con ý thức giữ gìn vệ sinh – môi trường, không xả rác thải làm tắt nghẽn dòng chảy, vận động nhân dân hình thành phong trào tự quản “bảo vệ và khai thông mương, cống, khe suối, dòng chảy” trước/trong và sau những ngày mưa bão. Thực tế thời gian qua, tại kênh mương thoát nước giáp giữa đường Phan Đình Phùng và đường Hai Bà Trưng, không hiếm thấy tình trạng người dân xả rác thải xuống 2 bờ kênh mương thoát nước.
  • Khi thẩm tra thiết kế để cấp phép, kiểm tra thực tế xây dựng tại hiện trường, cơ quan chức năng cần kiểm tra chứng chỉ hành nghề xây dựng của các tổ chức và cá nhân liên quan đến chuỗi hoạt động xây dựng. Qua xử lý vi phạm trật tự xây dựng, đề nghị thành phố phản ánh thông tin về Sở Xây dựng để có biện pháp chấn chỉnh, chế tài đối với đội ngũ hành nghề xây dựng. Cần rà soát, bổ sung các quy định, quy trình để kiểm soát quá trình thụ lý hồ sơ và trách nhiệm công chức khi thực hành chức năng, nhiệm vụ được giao (liên quan đến kiểm tra hồ sơ nhà – đất, cấp phép xây dựng, hậu kiểm và xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị).

    (a) Đề nghị Thành phố và Ngành Xây dựng cần phối hợp, rà soát lại các quy định về chỉ tiêu quy hoạch – kiến trúc đối với nhà ở và công trình riêng lẻ tại TP Đà Lạt (được ban hành tại Quyết định số 36, năm 2015 và Quyết định sửa đổi số 41, năm 2021 của UBND tỉnh Lâm Đồng) để điều chỉnh, bổ sung, theo hướng:

    (b) Hạn chế quy hoạch chia lô đất ở dạng “nhà liên kế” để hình thành mới các dãy nhà ở, nhà nghỉ, homestay, khách sạn… tại các thềm địa hình chênh cốt (dạng sườn đồi) và dưới thấp trũng so với mặt đường (kể cả đường hẻm); vì với dạng nhà liên kế thường sẽ hình thành khối tích lớn, có tải trọng nặng, tác động trên nền đất bazan sẽ tiềm ẩn nguy cơ trượt đổ công trình khi nền đất bị “ngậm” nước do mưa bão nhiều ngày. Đối với các khu vực đường hẻm, giáp sông suối và khe tụ thủy, cao trình đất có độ chênh cao tự nhiên giữa 2 tuyến đường chính hoặc hẻm: Cần tăng khoảng lùi cách ranh đất, chân taluy đất, kè chắn đất tối thiểu là 2,0 m; giảm số tầng cao và chiều cao tối đa về kiến trúc cho công trình còn tối đa là 03 tầng + 01 tầng áp mái (cho phần nổi); cho phép 1 tầng hầm âm vào đất (phía taluy dương), hoặc tối đa 02 tầng bán hầm tại vị trí sườn đồi, đất dốc (phía taluy âm). Hiện nay, quy định khoảng lùi nhà ở cách ranh đất 1,0 m và tầng cao, chiều cao kiến trúc nhà ở trong hẻm cũng như ngoài đường phố chính là không còn phù hợp.

    Quy định chặt chẽ giải pháp gộp thửa đất; chuyển mục đích sử dụng đất ở (có nguồn gốc từ đất lâm nghiệp và nông nghiệp); thẩm tra giải pháp thiết kế san lấp đất và xây kè chắn (kể cả bạt mái taluy đất) đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng đối với công trình kết cấu hạ tầng; đồng thời phải xem xét cùng lúc với hồ sơ thiết kế, xin phép xây dựng công trình (trong phạm vi khu đất). Tránh tình trạng duyệt san lấp đất và kè chắn xong, sau đó mới duyệt công trình sẽ không đồng nhất về biện pháp thi công nền đất và hố móng các công trình, hạ tầng trên nền đất yếu, không ổn định.Rà soát, kiểm tra lại kiến thức chuyên môn, năng lực giải quyết và đạo đức cán bộ – viên chức có chức năng quản lý kỹ thuật (thẩm định hồ sơ quy hoạch, kiến trúc công trình, đề xuất cấp phép xây dựng, cán bộ nhà đất và Đội quản lý trật tự xây dựng…) để có kế hoạch đào tạo lại, nâng cao; đồng thời có chính sách luân chuyển định kỳ, không để cán bộ nhà đất làm lâu quá 10 năm cho một công việc, trên một địa bàn.

    (c) Khống chế diện tích san lấp đất chỉ chiếm tỷ lệ tối đa 60% trên toàn diện tích lô đất; yêu cầu vị trí công trình phải bám sát địa hình tự nhiên và giảm chiều cao tối đa của kè chắn đất và mái ta luy đất từ 3 – 3,5 m (thay vì 4 m). Vì với tỷ lệ diện tích đất san lấp giảm, diện tích nền đất tự nhiên còn lại cộng với chiều cao kè chắn/mái taluy giảm, sẽ hạn chế nguy cơ sạt kè, trụt lở đất, gây nguy hiểm cho thềm đất thấp phía chân kè.

Về giải pháp dài hạn và bền vững:

  • Nhà nước triển khai phủ kín các đồ án quy hoạch chi tiết hoặc thiết kế đô thị – tỷ lệ 1/500, về giải pháp san lấp địa hình, xây kè chắn, cùng với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ tại khu vực hình thành “đơn vị ở” mới (đã được xác định trong đồ án quy hoạch phân khu – tỷ lệ 1/2.000 được duyệt), để hình thành các dự án kêu gọi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ tại khu vực được xác định “đơn vị ở”.
  • Trên cơ sở thực tế dự án đã hoàn thành (gồm san lấp, kè chắn, hạ tầng kỹ thuật…) sẽ là “căn cứ gốc” cho việc giải quyết, cấp phép các hồ sơ về đất đai và xây dựng trong khu vực. Mục đích nhằm tránh tình trạng phê duyệt thiết kế san lấp và kết cấu kè chắn riêng lẻ cho từng lô đất, thiếu sự liên kết cứng ổn định giữa các đoạn kè khi thi công không đồng bộ (như tình trạng đã xảy ra nêu trên).
  • Kiên quyết thu hồi diện tích đất rừng bị lấn chiếm trong đô thị (ảnh 3 & 4); có kế hoạch từng bước giải quyết ổn thỏa việc tháo dỡ toàn bộ các “nhà lưới, nhà kính” hiện có; thông qua giải pháp quy hoạch cụ thể được phê duyệt, để từng bước chuyển dần chức năng sử dụng đất từ nhóm “đất nông lâm” sang “đất xây dựng hỗn hợp” với tỷ lệ phù hợp, nhằm phát huy hiệu quả về môi trường, đất đai, kinh tế du lịch và phát triển bền vững đô thị.
  • Tăng diện tích độ bao phủ rừng, tỷ lệ đất cây xanh đô thị (gồm: cây xanh công cộng, cây xanh trong khu vực đất xây dựng dự án, cây xanh trong kiến trúc công trình) và diện tích mặt nước (sông, suối, hồ cảnh quan)… trong các đồ án quy hoạch đô thị (từ quy hoạch chung đến quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết); đồng thời kiên quyết thực hiện chính sách quản lý và đầu tư để các chỉ tiêu về đất rừng, đất cây xanh, mặt nước đã được quy hoạch xác định và phê duyệt trở thành hiện thực (cụ thể là trồng thông tạo “cảnh quan rừng trong đô thị”; nạo vét, khôi phục và mở rộng (nếu có thể) các “hồ nước điều hòa kết hợp hồ cảnh quan” đã có từ trước năm 1975 như các hồ: Than Thở, Mê Linh, Vạn Kiếp, Đội Có, Tống Lệ; hình thành các công viên chuyên đề, các tiểu công viên – kết hợp các tượng mỹ thuật, kể cả các vườn nông nghiệp trình diễn trong đô thị, với các loại cây- hoa-quả đặc hữu của Đà Lạt); góp phần cải thiện tích cực diện mạo và cảnh quan đô thị Đà Lạt – trong định hướng phát triển đô thị xanh và bền vững.
  • Tổ chức hội thảo khoa học tầm quốc gia và quốc tế; thuê mời chuyên gia đa ngành (hợp tác giữa Trung ương và địa phương) nghiên cứu đề tài, lập đề án/dự án, tìm kiếm giải pháp phù hợp nhất (về nguồn lực, điều kiện địa phương…) nhằm ứng phó với môi trường biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, xử lý triệt để tình trạng “ngập lụt cục bộ”, sạt lở đất, bê tông hóa và “kiến trúc ny lon” trong đô thị…

    Vẫn biết: Giải pháp nào cũng cần bắt nguồn từ quy định pháp luật, định hướng chiến lược và giải pháp quy hoạch (từ tổng thể đến chi tiết), nguồn lực tài chính đầu tư xây dựng hạ tầng (công/tư), cơ chế-chính sách trong quản lý (về đất đai, quy hoạch, xây dựng và hành nghề), năng lực cán bộ cơ sở, phương pháp quản trị khoa học… Nhưng quan trọng hơn cả là biết chọn lựa Giải pháp đúng tầm và khả thi nhất, để Đà Lạt sớm có lộ trình đi dần đến đích hoàn thiện, trong điều kiện vừa đáp ứng được nhu cầu xây dựng trước mắt của nhân dân, vừa thỏa mãn tính bền vững lâu dài trong chính sách phát triển đôthị…

    Trên đây chỉ là những suy nghĩ mang tính cá nhân, với mong muốn hiến kế giúp Đà Lạt luôn phát triển bền vững và là “Thành phố đáng sống”, luôn đem lại sự an yên cho người dân và sự mến thương của du khách muôn nơi./.

    ThS. KTS. TRẦN ĐỨC LỘC (Theo TC AS&CS số in tháng 7/20

  • https://anhsangvacuocsong.vn/ngap-lut-va-sat-lo-dat-tai-da-lat-di-tim-can-nguyen-den-giai-phap/

Nguồn tin bài:
Quảng cáo 2